Tuesday, October 05, 2010

Cùng Đọc Sách Hay: "Thầy học cũ của cha tôi"

Thầy Học Cũ Của Cha Tôi
Trích “Tâm Hồn Cao Thượng” (bản dịch: Hà Mai Anh)
Nguyên tác “Cuore” (Trái  Tim) của nhà văn Ý Edmond de Amicis (1846 – 1908)

“Tâm Hồn Cao Thượng” đã từng là cuốn sách gần như kim chỉ nam của nhiều thế hệ bạn đọc Việt Nam. Thời gian trôi đi, nhưng những gì tác giả gửi gắm qua từng bài học của thuở đầu đời về công ơn cha mẹ; về lòng yêu nước, thương người; về tình thầy trò, bè bạn, v.v... vẫn không bao giờ cũ, không bao giờ thừa! Những trang sách - những bài học này - không chỉ hữu ích cho những công dân tốt tương lai mà còn hết sức quí báu đối với đông đảo bạn đọc các giới, các ngành.

Hôm kia, cơm trưa xong, cha tôi đang xem nhật báo bỗng kêu lên một tiếng ngạc nhiên rồi bảo chúng tôi:
- Ta cứ tưởng cụ mất đã hơn 20 năm nay rồi. Cụ Crôxetti là cụ giáo khai tâm cho ta ngày xưa hiện còn sống và đúng 80 tuổi. Ta vừa xem báo thấy tin cụ được thưởng "danh dự bội tinh" vì cụ đã tận tâm với chức vụ trên 60 năm. Cụ mới về hưu được 2 năm nay. Cụ ở thành Cônđôvê cách đây độ một giờ xe lửa, tức là quê bác làm vườn nhà ta ngày xưa ấy.
Cha tôi nói tiếp:
- Enricô ơi! Mai ta sẽ đi thăm cụ.
Rồi cả buổi chiều hôm ấy, cha tôi chỉ nói đến chuyện cụ giáo Crôxetti. Cái tên của thầy học "vỡ lòng" đã làm sống lại trong ký ức của cha tôi biết bao nhiêu là kỷ niệm về thuở thiếu thời, kỷ niệm của các bạn cũ và nhất là kỷ niệm của bà cụ thân sinh ra cha tôi.
Cha tôi kể lại rằng:
- Hình ảnh cụ giáo đáng tôn kính ấy vẫn còn in trong óc ta. Khi ta học cụ độ 40 tuổi. Cụ người nhỏ nhắn, lưng hơi gù, mắt sáng, không râu, tính hồn hậu và thương yêu học trò như con. Sinh trưởng ở một nhà nông. Cụ đã chịu bao nhiêu nỗi thiếu thốn và đã tốn bao nhiêu công phu mới thành được một vị giáo viên. Cha mẹ ta rất yêu mến cụ và đãi cụ như một người bạn thân trong nhà. Không hiểu sao quê ở Tôrinô cụ lại về nghỉ ở Cônđôvê? Gặp ta, chắc chắn cụ quên rồi, nhưng không ngại, ta còn nhớ và nhận được cụ 40 năm! 40 năm qua rồi! Chóng thật!... Mai ta sẽ đi thăm cụ.
 

Hôm sau, độ 9 giờ, chúng tôi đã ra ga Xuxa. Cảnh xuân như vẽ. Chúng tôi qua những cánh đồng xanh, tốt và những bờ giậu đương hoa, mùi thơm ngào ngạt. Cha tôi có vẻ khoan khái, vừa ngắm cảnh, vừa nói với tôi:
- Ngoài cha ta thì cụ giáo Crôxetti là người yêu ta hơn hết và đã làm ơn cho ta nhiều nhất. Ta không bao giờ quên được những lời cụ khuyên và cả đến những câu cụ quở, mặc dầu những câu ấy có khi làm cho ta trở về phải phát khóc. Ta hãy còn nhìn rõ những lúc cụ vào lớp, cụ tựa gậy một góc, treo áo lên mắc rồi ngồi vào bàn: hôm nào cũng như hôm nào chẳng sai. Cụ là người điềm đạm, cẩn thận, chịu khó và hết lòng... buổi nào cụ cũng dạy đầy đủ và cẩn thận như buổi ban đầu.
Ta còn nhớ những lúc cụ gọi ta:
- Bôttin! Ngón tay trỏ quập vào quản bút kia mà!
Xuống ga Cônđôvê, chúng tôi tìm nhà bác làm vườn cũ nhưng chỉ có người vợ ở nhà. Chị ta có cái cửa hàng nhỏ trong ngõ. Lúc chúng tôi đến thì chị đang bận trông con. Gặp chủ cũ, chị mừng rỡ quá kể chuyện rằng chồng chị sang thành Giênôva làm thợ đã ba năm nay cũng sắp về và đứa con gái đầu lòng bị bệnh câm điếc đang cho học tại trường Câm điếc ở Tôrinô. Sau cùng chị chỉ giúp nhà cụ giáo Crôxetti mà ở làng này không một ai không biết.
Chúng tôi theo một con đường gồ ghề, hai bên giậu hoa đương nở, để đến nhà cụ.
Cha tôi không nói chuyện nữa vì mãi ngẫm nghĩ những truyện ngày xưa; thỉnh thoảng tôi lại thấy cha tôi mỉm cười hoặc lắc đầu thở dài.
Thình lình, cha tôi đứng dừng lại nói:
- Kia rồi! Đích thị là cụ rồi! May quá!
Quả nhiên ở đằng xa, một cụ già lưng còng, râu bạc, đầu đội mũ nỉ, tay chống gậy trúc, đang thủng thỉnh đi về phía chúng tôi.
Cha tôi bước rảo và nhắc lại:
- Chính cụ!
Khi chúng tôi đến gần cụ thì đứng dừng lại. Cụ cũng không bước nữa và ngẩng nhìn cha tôi. Cha tôi cất mũ hỏi:
- Xin cụ tha lỗi, có phải cụ là cụ giáo Crôxetti không?
Cụ già đáp:
- Sao ngài lại biết tôi? Vâng, chính tôi là Crôxetti.
Cha tôi cầm tay cụ và nói:
- Vậy xin cụ cho phép học trò cũ bắt tay cụ. Tôi ở Tôrinô về thăm cụ.
- Tôi hân hạnh quá! Vậy ông học tôi vào hồi nào? Xin lỗi ông, ông cho tôi biết tên.
Cha tôi xưng danh và nói đã học cụ năm ấy năm nọ. Cụ cúi đầu nghĩ và nhắc đi nhắc lại tên cha tôi đến 3, 4 lần. Bỗng cụ sực nhớ ra, ngẩng lên hỏi:
- Anbertô Bottini có phải là con cụ kỹ sư Bôttini ở phố La Côxôlata không?
Cha tôi giơ hai tay ra, nói:
- Thưa cụ, phải đấy!
- Quí hóa quá!
Cụ vừa nói vừa ôm lấy cha tôi. Xong cụ nói tiếp:
- Mời ông về nhà tôi chơi.
Chúng tôi theo cụ về nhà. Một lát sau, chúng tôi đến một cái vườn rộng, trong có ngôi nhà hai gian. Cụ mở cửa gian đầu mời chúng tôi vào một cái buồng chung quanh quét vôi trắng. Góc phòng kê một cái sập trên có cái mền bọc vải kẻ xanh và trắng, bên cạnh là cái bàn giấy có ngăn chứa sách, giữa kê cái bàn con và 4 cái ghế tựa, trên tường treo một tấm bản đồ cũ : đó là tất cả đồ đạc trong phòng.
Chúng tôi ngồi. Cha tôi và cụ giáo nhìn nhau một lúc, không nói gì.
Trong phòng, nền lát gách vuông, mặt trời rọi vào như một cái bàn cờ lớn. Cụ đăm đăm nhìn xuống nghĩ ngợi rồi hình như sực nhớ ra, cụ nói to:
- Anbertô! Thôi! Tôi nhớ ra rồi! Bà cụ thân sinh ra ông là người tử tế lắm. Năm đầu ông ngồi bàn nhất bên trái, cạnh cửa sổ.
Cụ nghĩ một lúc như để lục lại những ký ức năm xưa, xong cụ lại nói:
- Ngày xưa ông là một cậu bé lanh lợi lắm! Năm thứ nhì, ông bị chứng yết hầu suýt nguy, sau được lành mạnh, bà cụ lại đưa ông ra trường, người trông hãy còn còm gầy và đầu trùm một cái khăn vuông to tướng. Từ bấy đến nay, đã 40 năm rồi, phải không? ... Nay ông lại có lòng tốt đến thăm thầy cũ thực là quí hóa! Mấy năm trước cũng có nhiều học trò cũ đến thăm tôi, kẻ là Linh mục, người làm Đại tá và nhiều người nữa đều có địa vị khá cả.
Cụ giáo nhân hỏi cha tôi nay làm nghề nghiệp gì, cha tôi đáp xong, cụ vui vẻ nói to:
- Một chức nghiệp tự do (Theo bài "Chú hề con" ông Anbertô là ký giả) có ích cho quốc dân! Tôi rất vui lòng.
Xong cụ bùi ngùi nói:
- Đã đến gần một năm nay, tôi không được tiếp ai cả. Có lẽ ông là người khách cuối cùng của tôi, ông ạ.
Cha tôi vội nói:
- Cụ đừng nói thế. Trông cụ còn khoẻ mạnh nhiều.
Giáo sư giơ bàn tay cho cha tôi xem và nói:
- Ông không trông thấy tay tôi run à? Đó là một triệu chứng dỡ... Tôi bị chứng này đã ba năm, khi tôi còn đang dạy học. Trước tôi tưởng không can gì, sau bệnh ấy một ngày một tăng làm cho tay tôi không thể viết được nữa. Tôi phải xin nghỉ. Sau 60 năm vui trong cõi học, bỗng dưng phải từ biệt nhà trường từ biệt học trò và cả công việc, lòng tôi không khỏi đau đớn ngậm ngùi. Sau buổi học cuối cùng, tất cả học trò theo về nhà tôi và ăn mừng. Tuy nhiên tôi vẫn thấy buồn, vì tôi nghĩ thế là cái đời của tôi đã tàn. Năm ngoái bà giáo nhà tôi tạ thế, kế đến đứa con một cũng qua đời. Hiện giờ tôi chỉ còn hai đứa cháu gái thôi. Ruộng, vườn không có, tôi sống với một số lương hưu trí vài trăm lira, tần tiện cũng đủ. Ngồi không thấy ngày dài quá. Cái thú tiêu khiển độc nhất của tôi là cái thú xem sách cũ, đọc học báo và các pho sách truyện mà người ta biếu tôi. Đằng kia... (Cụ trỏ vào ngăn sách trên bàn) ...đằng kia đã xếp tất cả những kỷ niệm, những quá khứ của đời. Ngoài những tập ấy ra, tôi không còn có gì là của báu trên đời này nữa.
Nghỉ một lúc, bỗng cụ vui vẻ bảo cha tôi:
- Ông Anbertô ơi! Ông có muốn tôi đem lại cho ông một sự ngạc nhiên không?
Nói xong, cụ chạy lại bàn viết, mở ngăn kéo ra, trong có vô số những buộc giấy bên ngoài đánh ghi cẩn thận.
Cụ bới tìm một lúc lấy một buộc tháo ra trở vài tờ rồi rút một mảnh giấy cũ ra cho cha tôi. Đó là một "bài luận" của cha tôi làm đã bốn mươi năm nay.
Trên đầu, tôi thấy mấy giòng chữ này:
"Anbertô Thứ hai, ngày 3 tháng 4 năm 1838
Luận
...."
Nhận ngay ra nét chữ nguệch ngoạc hồi còn nhỏ, cha tôi cầm đọc và mỉm cười. Đang xem, cha tôi bỗng dân dấn nước mắt. Tôi hỏi tại sao thì cha tôi ôm chặt tôi vào lòng và bảo:
- Con ơi! Con hãy xem trang này. Con nhìn kỹ những chữ L và T mà chính tay bà nội con đã dạm lại cho ngay ngắn, dòng cuối cùng, hoàn toàn do tay bà viết vì thuở ấy bà tập viết giống chữ ta để mỗi khi ta mệt hay buồn ngủ không làm hết bài thì bà lại làm nốt cho ta. Mẹ ta thực đã thương ta vô cùng!
Nói xong, cha tôi kính cẩn nâng trang giấy lên miệng hôn.
Cụ giáo trỏ vào các buộc giấy còn lại nói:
- Đó là những cuốn sổ tay của tôi. Mỗi năm tôi lấy một bài của mỗi người học trò cất đi, xếp thứ tự và đánh số. Đôi khi trở ra xem lại : chỗ này một câu, chỗ kia một câu thì muôn điều lại hiển hiện ra trong óc tôi và tựa hồ như sống lại cuộc đời dĩ vãng.
Ông Anbertô ơi! Từ ngày tôi đi dạy đến giờ, kể biết bao nhiêu học trò! Nhắm mắt lại, tôi nhìn thấy một đám đầu xanh của trăm nghìn đứa trẻ, lớp nọ kế tiếp lớp kia. Trong số ấy, biết đâu lại không có kẻ thành ra người thiên cổ rồi! Tôi nhớ dai nhất là những học trò tốt nhất và những học trò xấu nhất, những người đã làm cho tôi vui lòng và những người đã làm cho tôi buồn bực. Nhưng tôi bây giờ cũng như người đã sang bên kia thế giới rồi, tôi yêu tất cả, ai cũng như ai.
Cha tôi mỉm cười hỏi cụ:
- Còn tôi, ngày xưa có nghịch lắm không? Thưa cụ!
- Về phần ông à! Không, ngày ấy tuy có nhỏ tuổi, nhưng ông đã tỏ ra một đứa trẻ đứng đắn và có nết. Tôi còn nhớ bà cụ nhà là người rất hiền hậu và yêu dấu ông vô cùng... Thế nào? Ông bỏ cả công việc để về thăm một nhà giáo thanh bần, tuổi tác?
- Thưa cụ nhắc đến mẹ tôi, tôi lại nhớ đến buổi học đầu tiên của tôi. Mẹ tôi dẫn tôi đến trường. Hôm ấy là lần thứ nhất mà mẹ tôi phải dời tôi trong hai tiếng đồng hộ và giao tôi trong tay người lạ. Đối với mẹ tôi, việc đi học coi như một việc ra đời, một bước đầu trong những kỳ ly biệt liên tiếp nhau sau này không thể tránh được và sẽ làm cho mẹ tôi thương nhớ. Xã hội sẽ lôi kéo con bà ra và không bao giờ giả lại nguyên vẹn. Vì thế, mẹ tôi rất cảm động, kêu xin với thày để thầy chăm chú cho. Ra về, mẹ tôi còn nhìn qua khe cửa, mỉm cười với tôi, hai mắt long lanh giọt lệ. Cụ ra hiệu cho mẹ tôi về và có ý bảo mẹ tôi cứ yên tâm. Cái nét mặt khoan từ ấy,cái cử chỉ hòa nhã ấy, cái cảm tình thân ái ấy đã ghi sâu vào trong cõi lòng, khiến tôi không bao giờ quên được. Ngày nay, chính vì mối kỷ niệm ấy mà tôi phải dời Tôrinô lại đây để thưa với cụ, sau một kỳ xa cách hơn 40 năm trời, rằng :"Cảm ơn thầy đã dạy dỗ con!"
Cụ không nói gì chỉ lấy bàn tay run vuốt ve đầu tôi và trán tôi.
Trong khi ấy, cha tôi đưa mắt nhìn bốn bức tường trơn, chiếc giường gỗ tạp, một miếng bánh tây để cạnh chai dầu ở bệ cửa sổ, rồi có vẻ nghĩ ngợi.
- Sau 60 năm tận tuỵ với nghề, phải chăng đó là tất cả những phần thưởng của thầy?
Gặp người cũ, xem chừng cụ hài lòng lắm. Cụ nói chuyện về gia đình chúng tôi, về các cụ giáo đồng thời và những bạn học của cha tôi.
Cha tôi ngắt chuyện và ân cần mời cụ ra thành phố Cônđôvê xơi cơm hiệu với chúng tôi:
Cụ đáp:
- Cảm ơn ông, tôi không đi được.
Cha tôi liền cầm lấy hai tay cụ mời tha thiết. Cụ nói:
- Tay tôi run thế này, ăn làm sao được. Như thế sẽ là cái tội cho tôi và cho cả mọi người nữa.
Cha tôi nói:
- Thưa thầy, lúc ăn, con sẽ hầu thầy, không ngại.
Cụ bất đắc dĩ phải nhận lời, vừa đóng cửa vừa nói:
- Ông Anbertô ơi! Hôm nay thực là một ngày vui vẻ cho tôi! Tôi quả quyết với ông rằng tôi sẽ ghi nhớ mãi cho đến khi tôi không còn sống nữa.
Cha tôi dắt cụ giáo theo đường cũ trở ra.
Đến hàng cơm thì vừa đúng 12 giờ. Chúng tôi vào bàn.
Cụ giáo ngồi giữa cha tôi và tôi. Tiệc ăn bắt đầu. Cụ giáo tay đã run lại bị xúc động nên không thể lấy được đồ ăn. Cha tôi cắt thức ăn, cắt bánh, và lấy muối bỏ vào đĩa cho cụ. Uống, cụ phải dùng cả hai tay cầm cốc mà vẫn còn run, làm đổ xuống áo gi lê. Cha tôi đứng dậy cầm khăn chực lau, cụ gạt ra, bảo:
- Không được. Tôi kiêng...
Rồi cụ cười và đọc một câu dài bằng tiếng La Tinh.
Cuối bữa, cụ nâng cốc, trịnh trọng nói:
- Ông Anbertô thân quí của tôi ơi! Tôi uống cốc này để chúc cho ông cho các cháu được mạnh giỏi và để tưởng niệm cụ nhà!
Cha tôi liền bắt tay cụ và nói:
- Thưa thầy, cảm ơn thầy, con cũng xin chúc thầy được trường thọ.
Ở cuối phòng, chủ tiệm và người nhà xúm xít đứng nhìn, hình như họ lấy làm sung sướng thấy vị giáo sư thân yêu của họ được ưu đãi.
Hai giờ, chúng ta ra ga. Cụ giáo tỏ ý muốn tiễn chân. Cha tôi lại khoác tay cụ, còn tôi thì dắt tay cụ và vác gậy cho cụ. Những khách qua đường đều đứng lại trông vì ở đây ai cũng biết cụ và kính cụ như cha.
Qua một ngõ kia, nghe có tiếng trẻ con đánh vần và đọc sách.
Cụ đứng lại, nét mặt rầu rầu, bảo cha tôi:
- Ông Anbertô ơi! Tôi buồn quá! Nghe tiếng trẻ học, tôi lại nhớ đến trường cũ, nơi 60 năm ròng, tôi đã quen bén thứ âm nhạc bằng tiếng trẻ thơ ấy... Than ôi! Bây giờ tôi không có gia đình, tôi không có học trò nữa!
Cha tôi đáp:
- Thưa thầy, xin lỗi thầy, có lẽ thầy lầm rồi! Thầy còn có biết bao nhiêu là học trò hiện ở rãi rác trong cõi đời này! Chúng vẫn nhớ tới thầy cũng như con không bao giờ quên được thầy.
Cụ già buồn rầu nói :
- Không, không. Tôi không có trường học nữa. Tôi không có học trò nữa. Mà không có học trò thì tôi không có cái thú sống ở đời!
- Thầy đừng nói thế. Giáo trạch của thầy đã đầm thấm khắp nơi. Thầy đã hy sinh đời thầy một cách rất cao thượng.
Cụ giáo không nói gì, gục đầu vào vai cha tôi. Khi chúng tôi đến ga thì xe lửa sắp chạy. Cha tôi vội vàng hôn cụ và nói:
- Thôi! Chào thầy ở lại, con về.
Cụ nắm tay cha tôi ép vào ngực cụ, dân dấn nước mắt nói:
- Thầy chào con và cảm ơn con.
Trước khi lên xe, cha tôi đỡ lấy cái gậy trúc của cụ đưa cái gậy cán bạc có khắc tên tắt của cha tôi cho cụ và nói:
- Xin thầy giữ lấy cái gậy này gọi là chút kỷ niệm của người học trò cũ.
Cụ không chịu nhận, nhưng cha tôi đã nhảy lên xe và quay ra nói:
- Kính thầy ở lại.
Cụ đáp:
- Con ơi đi đường thận trọng nhé! Ta cầu trời phù hộ cho con đã có lòng quí hóa đối với thầy cũ.
Cha tôi cảm động chào cụ lần nữa.
- Thôi! Lạy thầy! Con mong lại có ngày được gặp thầy!
Xe chuyển bánh, chúng tôi trông thấy cụ lắc đầu như có ý bảo:
- Thầy trò ta có lẽ không bao giờ gặp nhau nữa!
Cha tôi thấy vậy liền nói thêm:
- Xin thầy đừng ngại, thầy trò ta còn nhiều dịp gặp nhau.
Xe chạy, cụ giơ bàn tay run lên để chào và để trả lời.